Một tư thế “tựa gối ôm cần”, một sự đợi chờ “lâu chẳng được”, một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe “cá đớp”. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu, đó là một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao.
Cũng như mạch cảm xúc ấy, Nguyễn Khuyến đã đưa cái thần của cảnh thu Việt Nam vào bài Thu vịnh:“Trời thu xanh nắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào”
(Thu vịnh)
Cái thanh thoát nhẹ nhõm, cái cao vời vợi của không gian được gói gọn trong bầu trời thu xanh ngắt. Điểm nhấn trên bầu trời ấy là “cần trúc”. “Cần trúc” còn non trông yếu ớt, khi có làn gió hiu hiu thổi nhẹ, giống như chiếc cần câu nghiêng bóng xuống mặt ao, đu đưa trước gió. Không gian mùa thu như chìm lẫn trong màn sương mờ ảo của buổi chiều. Hình ảnh mùa thu pha thêm màu “nước biếc” với khói phủ nhạt nhòa. Cảnh vật ở đây thật tĩnh lặng:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
(Thu vịnh)
Chùm hoa xuất hiện trong Thu vịnh, đưa hương thơm ngạt ngào từ quá khứ bay đến hiện tại bằng trí tưởng tượng của chính nhà thơ. Tiếng ngỗng vọng tưởng kêu vang trong bầu trời như bứt tâm hồn nhà thơ về với thực tại. Âm thanh ấy vang xa sao mà xa lạ thế, bởi đó đâu phải là ngỗng quê hương. Nỗi đau của người dân mất nước, càng thấm thía hơn trong đêm thu vắng vẻ. Nguyễn Khuyến bộc lộ lòng mình, ông thấy thẹn thùng với Đào Tiềm, thi sĩ nổi tiếng ở Trung Quốc đã sớm từ quan về ở ẩn trước cuộc đời ô trọc. Cái thẹn trong lời kết ở Thu vịnh càng khiến nhân cách của Nguyễn Khuyến thêm sang đẹp. Đứng trước thiên nhiên kì diệu ấy, tâm hồn con người như được soi bằng thứ ánh sáng tinh khiết để nhân cách được bộc lộ dễ dàng hơn.
Đến với Thu ẩm, chúng ta cũng không thấy những hình ảnh ước lệ, sang trọng mà thay vào đó là sự thanh sơ và giản dị với:
“Năm gian nhà có thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lèo
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”
(Thu ẩm)
Hình ảnh “gian nhà” vừa là tả thực, vừa khái quát tầm vóc của một làng quê ở vùng đồng chiêm trũng. Từ láy “le te” đã khắc họa hình dáng của ngôi nhà cỏ trong không gian, nó là nơi thu hút, hội tụ sự ấm áp của đời sống nông thôn đất Việt. Không gian mùa thu với bầu trời cao rộng, những gian nhà cỏ thấp như những chiếc nấm. “Thấp le te”, gợi lên cảm giác đơn sơ, nhỏ bé, “ngõ tối” và “đêm sâu” là cảnh bình thường nhưng lại có ánh lửa đom đóm, “lập lòe” làm cho “ngõ tối” và “đêm sâu” lúc tối, lúc sáng. Chữ “lập lòe” vừa gợi độ sinh động của ánh lửa đóm chớp nháy trong đêm vắng. Không gian mùa thu như chìm vào trong làn khói nhẹ chập chờn. Bắt gặp hình ảnh con đom đóm nhỏ bé trong thơ Nguyễn Khuyến, chúng ta lại thấy tràn ngập tâm hồn thứ ánh sáng của đồng nội. Tuy yếu ớt, nhưng có thể làm sáng tâm hồn con người:
“Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”
Qua chùm thơ thu của mình, Nguyễn Khuyến đã tài tình thâu tóm đươc cái hồn thu của làng quê Việt Nam trong các bài thơ thu. Cách cảm nhận mùa thu của Nguyễn Khuyến là cái thu của đất trời, của không gian, của làng quê đất nước. Nó mang nỗi buồn chung của vũ trụ, của thời đại, của cả một lớp ngưởi như ông. Nó mang nỗi buồn nhưng là cái buồn ẩn chứa trong thiên nhiên, trong vũ trụ, không phải la cái buồn được bộc lộ trực tiếp của cá nhân. Ta yêu biết bao cái thanh cao trong trẻo, dịu êm và không khí tĩnh lặng, thanh bình của mùa thu Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến. Cảm hứng về mùa thu đã đi vào trong thơ ca Việt Nam thật bình dị, thanh sơ và thấm đẫm tâm trạng.
0 comments:
Đăng nhận xét