Hệ quả của cấu trúc văn hóa đã tạo điều kiện cho nghề ả đào và geisha một khả năng giao tiếp rộng, ma lực hấp dẫn cao nên nó đóng vai trò định hình bộ mặt văn hóa xã hội. Tiền đề này đã tạo nên một cấu trúc võ sĩ và geisha trong lịch sử, văn chương và văn hóa. Hình tượng kỹ nữ đi vào văn học, như tác phẩm Xứ tuyết của Kawabata mang trong mình niềm mê hoặc đặc biệt về phụ nữ Nhật Bản - điển hình là giới geisha. Ở Việt Nam, tác phẩm Chùa đàn của Nguyễn Tuân cũng dấy lên sự nỗi ám ảnh huyền hoặc về tiếng hát của ả đào có khả năng cứu rỗi số phận một con người, một cộng đồng thôn Mê Thảo.
Mặt khác, nhìn vào cấu trúc văn hóa văn nhân - ả đào, võ sĩ- geisha, ta cũng phần nào hiểu được khả năng tiếp biến văn hóa của người Việt và người Nhật giai đoạn trung cận đại.
Cùng tiếp thu tư tưởng của Nho giáo Trung Hoa, nhưng Việt Nam và Nhật Bản có sự khác nhau. Để tiếp thu cách quản lý tập quyền của Nho giáo, Việt Nam thì rập khuôn, ngay cả giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh, chính quyền cũng dựa trên chỉ một bộ máy trung ương- triều Lê, nghĩa là bộ máy quan chế của ta hoàn toàn giống như Trung Quốc. Còn ở Nhật Bản thì theo một hướng khác. Thời trung đại, Nhật Bản đã có 300 lãnh chúa cát cứ, đứng đầu là một lãnh chúa mạnh nhất Mạc Phủ kiêm tể tướng, một đại tướng quân- shogun chứ không phải một bộ máy quan liêu như ở nước ta. “Vì không có bộ máy quan liêu nên nó không dựa vào kẻ sĩ mà phải dựa vào võ sĩ, không có đẳng cấp sĩ phu mà chỉ có thứ bậc võ sĩ”.
Ngoài Nho giáo, ả đào và geisha có chung ảnh hưởng Đạo giáo và tín ngưỡng thờ vật linh. Khởi thủy, geisha là những con đồng ở phái thần đạo, tiêu biểu cho chủ nghĩa khoái lạc - cũng đeo vàng dát ngọc, cũng tin thần linh, bất cứ nhà geisha nào cũng có mèo xứ, sành hay một con cáo - thần Inari, họ tin rằng cáo chạy nhanh sẽ mang những lời cầu khẩn của họ lên trời mau hơn. Ả đào thì thờ Thanh Xà đại vương và Mãn Đường Hoa công chúa (Đinh Lễ - Bạch Hoa) và các vị thần của Đạo giáo như Đông Phương Sóc, Lã Đồng Tân…
Bên cạnh đó, phần lớn các loại hình nghệ thuật ả đào và geisha đều tiếp thu cảm nghiệm của Phật giáo. Nghệ thuật hát ả đào lấy cảm hứng chủ đạo từ triết lý của nhà Phật. Nhiều loại hình nghệ thuật geisha sử dụng như: trà đạo, hoa đạo, hương đạo, thư pháp… cũng nằm trong trường ảnh hưởng của Phật giáo Thiền tông.
Cái đẹp của ả đào và geisha cũng ít nhiều tiếp thu từ cái nhìn mỹ học Trung Hoa, một hệ thống quan điểm về nghệ thuật làm đẹp của nữ giới theo hai hướng mỹ cảm: trau chuốt cầu kỳ đến mức điêu luyện; theo cái đẹp tự nhiên chân chất, mộc mạc nhưng sâu xa, ý vị.
Về mặt này thì Nhật Bản có ưu thế hơn Việt Nam vì tính duy mỹ là văn hóa truyền thống lâu đời của Nhật. Trong Cổ sự ký (Kojiki), huyền tích về thuở hồng hoang Nhật,Thái dương thần nữ Amaterasu là nữ thần của ánh sáng và sắc đẹp. Geisha được miêu tả cụ thể với hình tượng người con gái có làn da trắng xóa như búp bê sứ, đôi môi đỏ chót rực rỡ và đôi chân mày cong vút thanh mảnh đầy duyên dáng. Trang phục kimono: mùa nào các geisha cũng phải thắt lưng (obi) bằng tấm lụa thêu rực rỡ quấn mấy vòng quanh bụng và buộc nút sau lưng, trông như đeo cái trống cho nên còn gọi là nơ trống. Cho thấy, geisha có cả một nghệ thuật trang điểm và làm tóc.
Ở Việt Nam, cái đẹp của ả đào chỉ mang tính ước lệ tổng hợp qua mấy câu thơ của văn nhân xưa (khuyết danh): “Mặt tròn thu nguyệt / Mắt sắc dao cau / Vào - duyên khuê các / Ra - vẻ hồng lâu / Lời ấy gấm - Miệng ấy thêu - Tài lỗi lạc chẳng thua nàng Ban, Tạ / Dịu như mai / Trong như tuyết - nét phong lưu chi kém bạn Vân - Kiều”. Trang phục “đầu vấn khăn, mặt tô son, điểm phấn, tóc bỏ đuôi gà, mặc áo năm thân dài quá gối, màu xanh điểm hoa (có khi dùng màu khác), cài khuy bên phải, quần dài đen chấm gót như các tố nữ trong tranh tứ bình...”. Trong lúc diễn xướng, làm trò, ấn tượng ả đào để lại cho người xem là sự trang nghiêm, trông có vẻ thụ động, có phần âm tính hơn geisha.
Cái đẹp của ả đào tương quan với cái đẹp của geisha.
Ả đào | Geisha | ||
Ngoại hình | Tiếp thu mỹ học Trung Hoa | Xu hướng tự nhiên chân chất, mộc mạc nhưng sâu xa, ý vị | Xu hướng trau chuốt cầu kỳ, điêu luyện, khắc vàng, vẽ nét |
Vẻ đẹp tổng quan | Như tranh dân gian giản dị, cổ điển dễ gần | Như búp bê sứ giả tạo, xa vời, xa xỉ | |
Trang điểm | Hài hòa, chỉnh chu | Công phu, cách điệu (hát tuồng, mặt nạ, tóc giả) | |
Trang phục | Áo dài và áo tứ thân ( bình dân) | ||
Cử chỉ, điệu bộ | Thụ động, ít động tác, ít dùng phi ngôn ngữ | Dịu dàng, uyển chuyển, mềm dẻo, nhiều động tác và phi ngôn ngữ | |
Nội hình | Đức tính | Giỏi chịu đựng | Khéo chiều chuộng |
Nhận thức | Cảm tính | Lý tính, thực dụng | |
Nghệ thuật | Thể loại | Đơn nhất: ca trù | Đa dạng: nhạc, thơ, văn, múa, trà đạo, cắm hoa, thư pháp… |
Múa & nhạc cụ | Giản tiện: múa bài bông, nhạc cụ: đôi phách | Phong phú: múa cây tùng, cây bách, anh đào… nhạc cụ: đàn, sáo, trống… | |
Kỹ năng | Chuyên sâu | Bao quát, tổng hợp | |
Kết luận | Thiên về cái đẹp truyền thống | Kết hợp cái đẹp truyền thống và hiện đại, hơi đặc biệt, tạo sự thu hút, hiếu kỳ |
0 comments:
Đăng nhận xét