Bài mới đăng

Main Ad ➤ Click "VÀO ĐÂY" để xem tin tức hàng ngày nhé!

Translate

Bài đăng phổ biến

Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2022

Một thoáng Đông Nam bộ Địa chí và lịch sử (phần 2)

 

Di chỉ đồ đá Phước Tân nằm ở phía đông trên đường Biên Hòa-Vũng Tàu ở cây số 42, được khám phá khi khởi xây một trại hủi và được Fontaine mô tả (9). Di chỉ này rất phong phú hơn cả di chỉ Cù Lao Rùa, có nhiều hiện vật đá như rìu, cuốc, đục có vai và một số gốm thô.
 
Trong những năm 1886-1890, Holbe đã thu thập ở Biên Hoà nhiều hiện vật tiền sử cùng với một số hiện vật ở 20 nơi khác trong vùng Đồng Nai, trong đó có 10 ri1u đồng. Trong tổng số 1200 hiện vật thì 91% là từ Biên Hòa. Bộ sưu tập được triễn lãm ở hội chợ quốc tế 1889.
 
Di chỉ Bến Đò (huyện Thủ Đức) cách cầu xa lộ 3km, rất phong phú gồm có 214 công cụ đá với nhiều rìu đá có vai và hàng ngàn mảnh gốm. Cuối năm 1975, các nhà khảo cổ Việt Nam đã phát hiện ra di chỉ Cầu Sắc (huyện Xuân Lộc) có 772 công cụ đá mới (gồm rìu có vai, rìu tứ giác..), gốm. Qua các hiện vật, đời sống dân cư ở đây chủ yếu là săn bắn trong rừng rậm.
 
Di chỉ Suối Chồn gần di chỉ Cầu Sắc được phát hiện vào năm 1978, thuộc thời đại đồng thau, gồm nhiều đồ đồng như rìu, lưỡi hái.. và một số hiện vật đá (rìu). Di chỉ Dốc Chùa (Bình Dương), khám phá 1976, đánh dấu giai đoạn cao của thời đồng thau, có rất nhiều rìu đá, gốm, hiện vật đồng, khuôn đồng, tượng thú, hạt chuổi mã nảo, thuỷ tinh v.v.. Năm 1980, ở Vũng Tàu, trong một lòng ao, đã phát hiện một trống đồng Đông Sơn có sao 12 cánh ở giữa mặt trống. Và cuối cùng năm 1984, nhân dân lúc đi làm rẫy đã phát hiện một “kho” vũ khí đồng (qua đồng), rìu đồng ở Long Giao (huyện Xuân Lộc) có liên hệ với văn hóa Đông Sơn. Trên 2 mặt qua đồng có trang trí hoa văn đẹp, cân xứng giống hệt nhau. Đây là điểm cao của văn hóa đồng ở Đồng Nai.
 
Ở Dầu Giây, Suối Đá (Xuân Lộc) và Phú Hòa đã phát hiện di chỉ có các hiện vật chuổi thuỷ tinh, hoa tai đồng, các mộ chum mai táng, đặc trưng của nền văn hóa Sa Huỳnh. Chứng tỏ văn hóa Sa Huỳnh đã phát triển ở vùng Đông Nam Bộ trên địa bàn lưu vực sông Đồng Nai. Ở Saigon khi đào móng xây nhà thờ lớn (Đức Bà) đã phát hiện di cốt người trong các chum/vò gốm. Bộ sưu tập này đã mất. Đây là phát hiện sớm nhất các mộ chum, trước cả sự phát hiện mộ chum ở Sa Huỳnh ở miền trung mà sau này được gọi là văn hóa Sa Huỳnh (9).
Chúng ta hiện nay có thể xác định là chủ nhân của các di chỉ tiền sử nói trên là tổ tiên của người Stieng, Mạ hiện nay. Người Mạ có khoãng 20000 người ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Lâm Đồng, Daklac trong đó ở huyện Bảo Lộc (Lâm Đồng) là nơi tập trung nhiều nhất. Tiếng nói của họ thuộc Mon-Khmer (tuy vậy một số nhà nghiên cứu cho là thuộc Austronesian) và đã có thời kỳ lập một tiểu quốc ít phụ thuộc Champa hay Angkor. Người Mạ hiền hòa, thường là cái kho để người Khmer và Stieng đến bắt cóc đem đi các nơi bán làm nô lệ. Họ làm lúa rẫy, thạo dệt vãi có hoa văn đẹp, ở nhà sàn dài, có tục cà răng và xâu lỗ tai lớn. Người Stieng đông hơn, chủ yếu ở Tây Ninh, Bình Dương (Sông Bé) và Đồng Nai, nói tiếng rất gần với tiếng Khmer. Trang phục khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Họ để tóc dài, búi sau gáy, xâu lỗ tai, đeo hoa tai bằng gỗ hoặc ngà và xâm mặt, xâm mình với nét hoa văn hình học đơn giản, cũng có tục cà răng nhưng nay không còn, uống nhiều rượu, ăn trầu. Tính tình ngay thật, rất tôn trọng lời hứa (9). Các sọ cổ tìm được ở Cần Giờ (Gò Cá Trăng), ở hạ lưu sông Cửu Long như An Sơn, Gò Tháp, Óc Eo cho thấy rất gần gủi loai hình sọ người Thượng (Stieng, Mạ) hiện nay, chứng tỏ địa bàn của họ xưa kia tản rộng từ Đông Nam Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long.
 
(b)     Sơ sử
Thời kỳ Óc Eo (đầu công nguyên đến thế kỷ 6)
Sau thời đại đá, đồng, sự liên hệ hàng hải với Đông Nam Á và Ấn độ đã đưa đến sự xuất hiện ở đồng bằng sông Cửu Long về phía vịnh Thái Lan vương quốc Phù Nam ấn độ hóa với nền văn minh Óc Eo. Phù Nam là một vương quốc hùng mạnh vào đầu công nguyên cho đến thứ kỷ thứ 6, có ảnh hưởng khắp địa bàn đồng bằng sông Cửu Long, Chân Lạp (Kambuja), Gia Định, Đồng Nai đến tận Võ Cảnh (Nha Trang). Phù Nam chủ yếu dựa vào hàng hải, có cử sứ bộ nhiều lần đi Trung quốc, qua đó ta biết được một phần lịch sử vương quốc này. 
Các di chỉ Óc Eo đã được tìm thấy ở Cần Giờ, Bàu Thành, Bến Cam, Vũng Tàu. Ở Cần Giờ, vùng nước sình lầy nước lợ, trên các bải đắp (giồng), đã tìm thấy nhiều di tích, hiện vật thuộc văn hóa Óc Eo, như gốm mịn Óc Eo ở Giồng Am, Giồng So Đũa, bình gốm thô thon dài như chai ở Giồng Am, Giồng Cá Trăng, những vết tích kiến trúc ở Giồng Am và Giồng Cây Trôm Lớn. Di chỉ Bàu Thành do P. Paris khai quật tìm thấy nhiều gốm, con lăng pesani, con lăng bằng đá. Gốm Bàu Thành được mallaret xác nhận là đặc trưng của gốm Óc Eo (9). Ở Vũng Tàu, năm 1925 trong khuôn viên một nhà nghĩ mát đã khám phá được nhiều hiện vật vàng trang trí giống hiện vật Óc Eo (hình hoa hồng nhiều cánh, hoa tai, nhẫn...), bộ sưu tập này đã mất trong thời chiến tranh 1945.
Những di tích tiền sử và sơ sử dày đặc ở vùng Đông Nam Bộ, trong lúc đó các di chỉ Óc Eo trãi rộng khắp miền Tây Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long). Điều này cho thấy Đông Nam Bộ là nơi con người cư ngụ lâu đời nhất, từ đó mới tỏa rộng tới Nam bộ. Sau đó miền Tây hấp thụ văn hóa Óc Eo từ Phù Nam, nhưng Đông Nam bộ và miền núi vẫn giữ truyền thống cũ lâu đời.
Thời kỳ tiền Angkor và Angkor (thế kỷ 7 đến 16)
Vương quốc Phù Nam suy vong và sau cùng dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn do Chân Lạp thôn chiếm vào thế kỷ thứ 6. Chân Lạp lúc đầu phụ thuộc và tiếp thu văn hóa Phù Nam. Sau khi thừa hưởng di sản Phù Nam, Chân Lạp mở đầu thời kỳ tiền Angkor. Nhưng trong một thời gian không lâu, Chân Lạp bị triều đại Sailendra của vương quốc Sri Vijaya ở Sumatra đánh phá và thôn chiếm vào thế kỷ thứ 8. Đầu thế kỷ 9, Jayavarman II giải phóng Chân Lạp và sáng lập ra vương triều Angkor. Từ thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 13 là sự hưng thịnh và vàng son của văn minh Angkor xây dựng các đền đài như Angkor Wat và Angkor Thom và bao gồm từ vùng Menam (Miến Điện) đến Champa. 
Nhiều di chỉ thời tiền Angkor và Angkor được tìm thấy ở khắp Đông Nam Bộ và Tây Nam với các tượng, gốm, hiện vật (9). Rạch Vương Cai gần Cù Lao Phố (Biên Hoà) kiến trúc gạch cổ đổ nát có tượng thần Uma đứng trên (chiến thắng) quỷ trâu. Long Bảo tự và chùa Bửu An gần Bến Gò (Đồng Nai) có thờ tượng thần Ganesh bằng đá và tượng đá nữ thần 4 tay phát thiện trước đây trên kiến trúc đá gạch đổ nát. 
Ngay trong vùng Saigon có các di tích tiền Angkor, Gò Cây Mai (tượng đá Visnu, 2 vàng lá khắc hình thần Indra và nhiều dụng cụ đá thời tiền sử), Rạch Lò Gốm (hai pho tượng đá Lokesvara tiền Angkor), và Angkor góc đường Lê Hồng Phong và Trần Hưng Đạo (tường đá và tượng bằng đồng hình người quỳ gối nâng chậu).
Tháp Chót Mạt, 18km tây bắc thị xã Tây Ninh, thuộc thời tiền Angkor còn khá nguyên viện vào năm 1909 khi Parmentier đến khảo sát (5), nối liền một kiến trúc đã hoàn toàn bị sụp đổ. Hiện nay tháp vẫn còn trong tình trạng tương đối tốt, có những trụ vuông trang trí hoa lá trên gạch cửa hình móng ngựa với mi cửa trang trí đẹp. Quanh tường và hàng hiên có nhiều tượng kudu, và trên vách tường có khắc trạm 8 hộ pháp (dvarapala) giữ đền. Phong cách nghệ thuật tháp được M. Mauger cho là thuộc thế kỷ 8 (5). Trong đống phế tích của kiến trúc phụ, đã tìm thấy một tượng đá thần Vishnu đội mão mà P. Dumont cũng nhận định là gần gũi với nghệ thuật Khmer Chân Lạp vào hậu bán thế kỷ 8. 

0 comments:

Đăng nhận xét