Lịch sử ra đời của ả đào trước geisha đến ba thế kỷ nhưng khách của ả đào - nhà nho tài tử lại ra đời muộn hơn khách của geisha - tăng lữ và võ sĩ cũng ngần ấy thời gian. Nhà nho tài tử Việt Nam đến muộn mà còn ra đi sớm hơn võ sĩ Nhật. Nguyên nhân là do lịch sử phong kiến Nhật là một vương triều độc lập, đã sớm có những thành tựu văn hóa từ thời Heian (794-1192) - văn hóa của quý tộc, đến giai đoạn nội chiến của các lãnh chúa (1185-1603) tạm gọi là thời trung đại - văn hóa của các tu sĩ và võ sĩ.
Còn Việt Nam, sau 1000 năm Bắc thuộc, những triều đại được gọi là thịnh chỉ mới bắt đầu từ Lý - Trần (1010-1400), sau là Lê - Nguyễn (TK XV - cuối TK XIX). Sự ra đời của nhà nho tài tử gắn liền với sự phát triển của đô thị, mà ở Việt Nam do tình hình chiến tranh liên miên nên đô thị phát triển không mạnh và không liên tục. Vì thế tầng lớp thị dân Việt Nam cũng ra đời muộn hơn Nhật Bản .
Cũng như ả đào có tiền thân là con hát, ca nương (TK II trước CN), geisha khởi thủy với hai tiền thân là saburuko (cuối TK VII) nghĩa là người phục vụ và Shirabyoshi (TK XI) lúc đầu chỉ là tên một vũ khúc, về sau nó được đặt tên cho các cô gái thường biểu diễn vũ khúc này để phục vụ cho các võ sĩ (samurai). Vào cuối TK XVI đến đầu TK XVII, khi cấu trúc xã hội Nhật bị phá vỡ, sự sa sút của nhiều gia đình quý tộc khiến cho nhiều cô gái biến thành shirabyoshi để có thể tồn tại.
Và trong khi ả đào khai sinh liền với sự ra đời của ca trù từ TK XV thì mãi đến TK XVIII, geisha của Nhật Bản mới hình thành. Thế kỷ XVIII ở Nhật là thời Edo (1603-1868) với văn hóa thị dân (chonin): thương nhân, nghệ sĩ, kỹ nữ, thời của những thành phố không đêm, của nhà hát, lữ quán, những cuộc vui thâu đêm suốt sáng.
Vào năm những năm 1945, nghề ả đào suy tàn thì nghề geisha cũng tàn lụi khi Nhật Bản dốc toàn lực vào Thế chiến II, dù sau đó có được phục hồi, thời hoàng kim đã qua đi vĩnh viễn. Đội ngũ geisha lại thiếu vắng người kế cận khi Quốc hội Nhật Bản ban hành luật cấm thiếu nữ chưa tròn mười lăm tuổi học làm maikô (tức geisha tập sự). Thống kê năm 1980 cho biết cả nước Nhật còn đến 17.000 geisha hành nghề, đến nay chỉ vào khoảng 200, chủ yếu ở cố đô Kyoto.
Như vậy, về mặt lịch đại, ả đào có lịch sử hình thành sớm hơn geisha rất nhiều. Nhưng xét về mặt đồng đại thì văn hóa đô thị của ả đào xuất hiện muộn và kết thúc sớm hơn geisha. Sự chênh lệch này ảnh hưởng lớn đến văn hóa ứng xử trong tiếp biến văn hóa của hai hình tượng này.
Không gian của ả đào là giáo phường và ca quán. Giáo phường là trường dạy nhạc, ca quán là nhà hát, về sau các ca quán kiêm luôn chức năng vừa đào tạo vừa kinh doanh nghề hát như nhà geisha. Nhà geisha còn đặc biệt hơn ca quán ở chỗ, nó được xây dựng theo mô hình kiến trúc nhà Minh-dành riêng cho việc ăn chơi, hưởng lạc. Các geisha tập trung hầu hết ở Kyoto,một cố đô với hình ảnh lặng lẽ, huy hoàng của một quá khứ, và thủ đô Tokyo với nhịp sống sôi động, ồn ào của xã hội công nghiệp. Các nàng sống tập trung tại một vài khu phố, người Nhật gọi là hanamachi (hoa nhai). Geisha thành phố (machi geisha) hoạt động tự do tại các buổi tiệc bên ngoài các khu phố giải trí, trong khi các geisha khu phố (kuruwa geisha) giải trí cho khách trong các buổi tiệc ở các khu phố giải trí.
Ca quán, cũng như nhà geisha, là không gian giải trí, không gian cảm hứng nghệ thuật, không gian làm việc (viết báo, xã giao, bàn việc kinh doanh…) của khách làng chơi. Không gian văn hóa geisha, cũng như không gian văn hóa ả đào, mang dáng dấp cung đình hơn dân dã, đó là không gian phòng, không có những tiết mục sôi động như ca vũ tạp kỹ. Vì thế, nhạc cụ cũng khá tinh giản, ả đào chỉ dùng đôi phách tre, geisha ngoài cây đàn shanmisen còn dùng sáo trúc và mấy chiếc trống, trống nhỏ tsutsumi vác lên vai, trống nhỡ ôkawa kê trên đùi, còn trống lớn taikô đặt cạnh người diễn.
Nhưng xét riêng từng khía cạnh, sự khác biệt cơ bản giữa ả đào và geisha là chủ thể văn hóa: một bên là văn hóa làng xã và văn hóa quý tộc phong kiến, còn một bên là văn hóa thị dân. Nguyên nhân là do sự khác biệt về giai cấp giữa ả đào và geihsa. Ả đào xuất thân từ giai cấp nông dân. Trong sinh hoạt đời thường của con nhà nông, ả đào ban ngày làm ruộng vườn hoặc chăn tằm dệt vải. Đến tối họ tới giáo phường để luyện tập đàn hát do quản giáp và mấy ả đào già nhiều kinh nghiệm chỉ bảo. Geisha xuất thân từ tầng lớp thị dân. “Con nhà gia thế sa cơ dấn thân vào chốn xa mã công khanh. Họ có giao ước với mụ chủ thời hạn làm việc, họ được tự do, không có một thế lực gì bắt họ phải theo ý muốn người khác được, ở phòng trà ấy, họ được giáo dục hoàn hảo”. Nhiều giesha nhận được sự nâng đỡ từ những gia đình thuộc tầng lớp thượng lưu, các dòng họ nổi tiếng.
Từ khác biệt cơ bản trên, ta hiểu văn hóa ả đào có nguồn gốc từ văn hóa tín ngưỡng tôn giáo dân gian, từ một nghệ nhân chuyên hát thờ ở đình làng về sau mới trở thành một cô đầu chuyên phục vụ giải trí cho quý tộc, trí thức. Trong khi đó, văn hóa geisha chỉ thuần túy là văn hóa giải trí, không dính dáng gì đến tín ngưỡng tôn giáo.
Song, ả đào và geisha đều tương đồng ở chỗ cả hai có một đời sống văn hóa theo những quy phạm nhất định. Họ bị cấm ăn mặc khó coi, phải mặc cùng một kiểu trang phục, tóc chải theo một kiểu đồng nhất, chỉ phục vụ những nhóm khách vài ba người và không bị ép buộc phải tiếp người khách nào mà họ không thích. Được yêu quý, trọng vọng, nhưng theo quy luật của nghề nghiệp, họ phải chôn chặt những khát khao thầm kín, ngay cả tình yêu trong thế giới đầy chuẩn mực.
Vì đối tượng khách của ả đào và geisha đều là nam giới nên khi đề cập hai hình tượng này không thể không xét đến khía cạnh văn hóa giới - mối quan hệ nam và nữ nhìn từ văn hóa xã hội.
Ở đây có sự tương đồng về cấu trúc văn hóa giới, nếu ả đào luôn đi cạnh văn nhân Việt Nam thì geisha không thể tách rời võ sĩ Nhật, cũng như thiền sư và kỹ nữ nói chung. Cấu trúc này không có gì thay đổi về bản chất, chỉ thay đổi về hình thức danh xưng, văn nhân xưa kia là nhà nho, hiện đại là trí thức, văn nghệ sĩ được gọi chung là quan viên; khách của geisha trước đây là võ sĩ thì ngày nay là khách thượng lưu, gọi chung là người bảo trợ (danna)…
Cấu trúc văn hóa này đã làm nên nét đặc thù riêng cho văn hóa ả đào và văn hóa geisha, giúp ta nhận diện ra đó là thứ văn hóa giải trí. Ả đào và geisha đóng vai trò là người phục vụ văn hóa truyền thống (ả đào xướng thơ, hầu rượu), geisha phục vụ bằng nghệ thuật hát, thưởng trà, rượu, ngâm thơ... Qua đó ta thấy ả đào và geisha cũng có nhiều nét tương đồng về quan niệm mỹ học, triết lý nhân sinh. Văn hóa giải trí này tạo ra những điều kiện và phương tiện (ngôn ngữ và các hệ thống ký hiệu) cho mối quan hệ giao tiếp xã hội.
Như trên, ta thấy ả đào và geisha luôn bị đặt trong mối quan hệ phụ thuộc nhà nghề và phụ thuộc người đàn ông - khách chơi nghệ thuật. Theo truyền thống, ả đào không được kết hôn với người ngoài nghề. Geisha cũng không được kết hôn hoặc khi kết hôn thì phải kết thúc sự nghiệp.
0 comments:
Đăng nhận xét